Khi nói nhiều phen mình và bạn bè đã cười quá tùy tiện, quá dễ dãi cũng là lúc chúng ta cùng thành thật mong ước với nhau rằng trong những ngày vui mỗi người có thể ít cười hơn nhưng đó thật sự là những tiếng cười... có chất lượng cao (tương tự như các loại hàng xịn, hàng xuất khẩu, hoặc xe khách chất lượng cao đang được ưa chuộng).
Gì cũng cười
Trong đời sống, những cuộc giao tiếp giữa người với người được liên tục hình thành và điều bắt buộc ở đây là mỗi người phải có ý kiến rõ ràng. Nói như Nguyễn Văn Vĩnh, "Ta phải biết rằng khi người ta nói với ta là để hỏi tình ý ta thế nào. Ai nói với mình thì mình phải đáp". Nhưng, vẫn theo Nguyễn Văn Vĩnh (trong bài Gì cũng cười in trong mục "Xét tật mình", Đông dương tạp chí số 22 năm 1913): "An Nam ta có một thói lạ là thế nào cũng cười. Người ta khen cũng cười, người ta chê cũng cười. Hay cũng hì mà dở cũng hì, phải cũng hì mà quấy cũng hì". Đây có lẽ là lần đầu tiên trong lịch sử ở ta có một người đưa ra cách đánh giá nghiêm túc đối với cách biểu hiện tình cảm nói chung của đồng bào mình. Sau khi in ra, bài viết đã được nhiều người đương thời đồng tình. Một nhà nho nổi tiếng là có tư tưởng độc lập như Phan Khôi vào năm 1931, nhân đọc cuốn tiểu thuyết Cay đắng mùi đời của Hồ Biểu Chánh cũng đã viết trên Phụ nữ tân văn một bài báo, phân tích về cái lối rất kỳ cục "cười ngay ở chỗ không nên cười tí nào". Về sau, Gì cũng cười còn được Dương Quảng Hàm trích lại trong cuốn Việt Nam thi văn hợp tuyển để học trò trung học cả nước cùng học (có in lại trong tập sách Dương Quảng Hàm con người và tác phẩm, NXB Giáo dục, 2002).
Cái lối Gì cũng cười này ngày nay vẫn đang được xem như cả một mối di lụy, tức là khi bước sang đời sống hiện đại chẳng những vẫn còn mà lại có những biến tướng rất tinh quái. Vượt đường liều lĩnh, tí nữa gây ra tai nạn cũng cười. Bán hàng giả không xong, bị người ta vạch mặt cũng cười. Cười bông lơn khi nói được mấy câu xỏ xiên xoa đầu thiên hạ. Cười trừ khi lấy bài của người ta in vào sách mình rồi không trả tiền. Cười tiểu nhân đắc ý khi dám làm những việc liều lĩnh người bình thường không dám làm. Cười mãn nguyện khi lừa được người ngay thẳng. Một ví dụ gần đây mọi người kêu nhiều là tiếng cười nhạt nhẽo của một số diễn viên sân khấu hoặc trên màn ảnh nhỏ. Trước khi nói, cười dọn giọng; nói xong lại chấm câu bằng một tiếng cười bất thành nhân dạng. Có thể đoán là chính họ cũng không còn tin vào hiệu quả tiếng cười của mình nhưng không biết làm gì cho đỡ trơ, đành cười gượng như vậy, từ đó làm nên một "phong cách biểu diễn của thời đại".
Từ cười chạy tội đến cười xí xóa
Lối cười vô tội vạ ở trên vừa nhắc cố nhiên là một cách cư xử không được đẹp lắm. Trước khi bình luận "...Gì bực mình bằng rát cổ bỏng họng mỏi lưỡi tê môi để mà hỏi ý một người, mà người ấy chỉ đáp bằng một tiếng hì". Nguyễn Văn Vĩnh trong bài viết trên đã gọi đúng bệnh khi bảo trong cái lối gì cũng cười này "có cái vô tình độc ác; có cách láo xược khinh người; có câu chửi người ta; có nghĩa yên chí không phải nghe hết lời người ta mà đã gièm trước ý tưởng người ta; không phải nhìn kỹ việc người ta làm mà đã chê sẵn công cuộc người ta". Khách quan mà xét, thì nói như thế không sai, song phải nhận nhiều người khi cười cũng không nghĩ sâu xa đến vậy. Mà ban đầu cười chẳng qua là không biết nói gì, hoặc đã trót sai lầm rồi cười trừ cho xong (tạm gọi là một thứ tiếng cười chạy tội), song lâu dần thành phản ứng tự nhiên, và một nụ cười nhạt thếch thường trực trên mặt chúng ta, giống như một thứ mặt nạ không gỡ ra nổi.
Cao ngạo, vô lối
Có những người chưa nói đã cười. Cặp mắt lim dim theo đuổi những ý nghĩ đâu đâu hoặc ngước mắt lên nhìn trời, họ đãi thiên hạ bằng một thứ tiếng cười sảng khoái tự tin tới mức cao ngạo. Cái lối cười ngất này, tưởng là cười cợt vui vẻ đấy mà khiến người nghe nghẹt thở. Khi mệnh danh đó là tiếng cười kẻ cả, người xưa đã gọi đúng bệnh kẻ thích lối cười khoe khoang này: anh ta tự thấy mình thông minh hơn đời; gặp phải quá nhiều kẻ ngớ ngẩn anh ta không nín được phải cười vào mũi những kẻ chung quanh đáng coi thường đáng khinh bỉ ấy. Và bởi anh ta đã cười lên, ấy cũng tức là cái điều anh ta nghĩ đã chắc chắn không thể khác, anh ta không còn ý định thảo luận với chúng ta bất cứ điều gì nữa. Một khi sự kiêu căng đã biến thành tiếng cười như thế này tức là bệnh đã nhập vào lục phủ ngũ tạng và khó lòng tìm được thuốc cứu giải. Loại người này càng cười, chung quanh càng thấy xa lạ.
Đám đông vô ý
So với tiếng khóc, tiếng cười có một ưu thế đặc biệt là dễ lây lan. Thấy một người khóc, ta có thể cảm động thương xót nhưng không dễ gì khóc theo. Trong khi đó chỉ cần thấy một người cười, thì mặc dầu chưa hiểu cơn cớ gì ta cũng cười theo ngay được. Những đám đông nhiều người cùng cười thường được hình thành một cách tự nhiên nhưng chính vì vậy, nếu bị châm ngòi bởi những tiếng cười tầm thường, cái khối người hỗn độn kia cũng sẽ mất hết những sự khôn ngoan sáng suốt để chỉ còn lấy sự cười xằng làm vui, người nhạy cảm dễ cảm thấy một sự đè nén nặng nề thô bạo.
Ảo tưởng
Bằng lương tri thông thường, hầu như ai cũng biết rằng nếu đến phúng viếng một đám ma mà lại bả lả nói cười thì thật có lỗi. Song biết đấy rồi để đấy, ai mà nhớ hết hàng ngày bao nhiêu lần mình tham gia vào những đám cười vô duyên.
Điều đáng nói là sở dĩ đời sống còn đang đầy rẫy những tiếng cười tầm thường tiếng cười vô nghĩa, tiếng cười giả tạo cùng là các loại tiếng cười lạc lõng khác, bởi trong tâm trí nhiều người, theo tôi hiểu, còn đang ngự trị một quan niệm rất lạ: Tiếng cười được tuyệt đối hóa coi như một thứ phản ứng tâm lý lành mạnh. Người ta dùng đủ mọi chữ để tôn vinh một cách hàm hồ cho cái hành động nhiều khi còn mang nặng tính chất bản năng đó. Nào cười là biết lui biết tới. Là lạc quan. Là bao quát sự đời. Là bằng chứng tuyệt vời của sự độ lượng và lòng nhân ái. Còn như tối thiểu thì cười cũng là liều thuốc bổ không mất tiền. Cười được xem như là đồng nghĩa với sự thông minh, sự khôn khéo. Một nhà thơ đã khái quát Khi chúng ta cười, thì mặt chúng ta bỗng đầy ánh sáng. Ôi tiếng cười cao đẹp quá, ai mà chả muốn cười nhỉ?! Có biết đâu cười cho ra cười thật là khó, phải có đời sống tinh thần giàu có lắm người ta mới có được thứ tiếng cười đầy ánh sáng như nhà thơ ca ngợi. Trước những hoàn cảnh ngang trái, một tiếng khóc bi tráng hoặc một tiếng thở dài đúng chỗ, là có trách nhiệm, là cao đẹp và giàu chất nhân bản, chứ không phải những tiếng cười làm dáng, cười vô cảm, cười như một thói quen khó chữa.
Còn gì khổ hơn trong những cuộc trò chuyện tiếp xúc hàng ngày chúng ta luôn gặp phải những bộ mặt đưa đám. Ngược lại thật dễ chịu khi được sống bên cạnh những người vui vẻ. Thế nhưng chung quanh tiếng cười cũng có thể có dăm bảy cách hiểu...
Một chút hư vô giả tạo
Những cuộc tranh luận nho nhỏ là một bộ phận trong sinh hoạt tinh thần nói chung của con người hiện đại. Theo lẽ thông thường sau một hồi bàn cãi thể nào cũng có kẻ thua người được, người kém thế hơn nếu có đầu óc phục thiện hẳn phải nghiêm chỉnh nhìn nhận chỗ kém cỏi của mình. Đằng này ở ta những người thua cuộc có một lối thoát khỏi thế bí rất lạ. Là lật ngược câu chuyện, coi mọi việc chẳng qua là trò đùa và cười, cười lấy được. Tiếng cười ở đây là một thứ màn ngụy trang, một cách lấp liếm cốt quên mọi chuyện cho nhanh, thực chất là hành động của con đà điểu rúc đầu vào cánh, lảng tránh tất cả. Đôi khi lại thấy lối cười khẩy, ra cái điều đây chỉ là chuyện vặt ta không thèm chấp, cười để làm nhòe câu chuyện trong một màn sương hư vô. Nó tạm thời gỡ cho người thua cuộc đỡ mất thể diện, thậm chí còn làm cho anh ta có cái vẻ sang trọng hơn người, song thực chất cuối cùng thế nào thì cũng chẳng thoát khỏi mắt thiên hạ.
Có nên biến tất cả thành trò đùa?
Trong một đoạn trước, chúng tôi đã bàn qua tới cái cách của một số người, nói như Nguyễn Văn Vĩnh, là gì cũng cười. Những tiếng cười mà Nguyễn Văn Vĩnh miêu tả thường mang tính cách thụ động và là một lời thú nhận về sự bất lực mà người ta không giấu nổi khi không biết nên có thái độ thế nào trước đời sống.
Nhưng còn một loại gì cũng cười khác, người ta chủ động cười, muốn dùng tiếng cười hóa giải tất cả. Có thể lấy một chuyện đã quá xưa để liên hệ:
Các sử gia thời phong kiến ở ta xưa vốn tiết kiệm chữ nghĩa ít khi nói về tình cảm cá nhân của các nhân vật lịch sử, nhất là trong chuyện vui đùa. Vậy mà họ vẫn phải dành cho Lê Long Đĩnh (tức Lê ngọa triều) một ít dòng ngoại lệ. Theo cách trình bày của Khâm định Việt sử thông giám cương mục, thì ông vua chết trẻ này (sinh 985, mất 1009) có lẽ là vị vua hay cười nhất trong lịch sử Việt Nam. Nhiều hành động của vua được miêu tả chỉ có một chủ đích là mua vui: Sai một gã phường chèo chuyên lóc thịt người có tội rồi bảo rằng nó không quen chịu đau và "cười ha hả"; bắt tù binh trèo lên ngọn rồi ở dưới chặt cây, thấy cây đổ thì "cười khanh khách" (Chữ trong ngoặc là lấy nguyên văn từ cuốn sách nghiêm túc đã dẫn). Cái sự thèm cười của vua phát triển đến mức Khâm định Việt sử thông giám cương mục còn kể "mỗi khi coi chầu, thể nào nhà vua cũng sai những kẻ khôi hài đứng hầu ở hai bên, nếu có ai nói gì thì chúng liến láu nói theo mà cười ồ, để làm át và đánh lạc những tiếng tâu bày việc nước của các quan". Nếu những tiếng cười nói trên ít nhiều có mang những nét bệnh hoạn, thì cái cười cuối cùng kể ra ở đây phơi bày một quan niệm sống, một trình độ của văn hóa trị nước mà nhà vua lúc ấy là kẻ đại diện. Dù có thể là Lê Long Đĩnh không có ý thức, song suy cho cùng, qua cái việc cười giễu cả những chuyện nghiêm chỉnh như thế này, nhà vua dường như muốn bảo rằng không có cái gì trên đời là quan trọng, cái gì cũng có thể mang ra làm trò đùa, kể cả những việc liên quan đến vận mệnh của đất nước. Cái bệnh thích cười như thế không ai có thể thương được!
Liệu có thể xem là những kỳ tích?
Từ bao đời nay, nhu cầu về tiếng cười vẫn là một nhu cầu chính đáng. Bởi lẽ vậy mà văn học dân gian nước nào thường cũng có một bộ phận gọi chung là truyện cười, riêng ở nước ta người xưa còn sáng tạo nên những truyện Trạng với một nhân vật xuyên suốt lấy chuyện chọc ghẹo thiên hạ cho mọi người vui làm lẽ sống. Sở dĩ người xưa cười nhiều như vậy có lẽ là vì đời sống hàng ngày đã khổ quá, trước những tai họa tự nhiên và xã hội, con người ta nhiều phen bất lực không có cách nào đề kháng, phải lấy tiếng cười để giải tỏa mọi ẩn ức. Suy cho cùng, đó là chính là một thứ biến tướng của phép thắng lợi tinh thần không ai bảo ai song đã lây truyền từ đời nọ sang đời kia, và tuy không được định danh đàng hoàng, song ra đời còn sớm hơn sự áp dụng còn uyển chuyển hơn ngón võ của chú AQ bên nước Tàu mà ngày nay nhiều người vẫn ham đọc. Có điều, gần đây một số người có xu hướng tuyệt đối hóa những tiếng cười này và đề cao chúng như một chiến công trên phương diện tinh thần. Mấy năm nay, các loại sách ghi chép tiếng cười dân gian là một món kinh doanh có lãi và được xuất bản thường xuyên, ví dụ như truyện Trạng Lợn. Trong khi vẫn kể toàn chuyện ông Trạng ngẫu nhiên may mắn ra sao, nói liều gặp thời như thế nào thì một trong những cuốn sách loại này được đặt tên khá mĩ miều là Kỳ tích Trạng Lợn, với hàm ý biểu dương vô điều kiện ông Trạng dân gian. Thật chưa bao giờ hai chữ kỳ tích lại bị lạm dụng đến thế.
Tiếng cười đối lập hay tiếp tục sự suy nghĩ?
Khi ca ngợi tiếng cười, một số người gần đây trích dẫn lại câu tục ngữ Do Thái mà nhà văn Pháp gốc Séc M. Kundera dẫn ra nhân bàn về tiểu thuyết: Con người suy nghĩ còn Thượng đế thì cười (Milan Kundera Tiểu luận, Nguyên Ngọc dịch, NXB Văn học, 2001). Người ta cố ý gán cho câu tục ngữ tuyệt diệu ấy một nội dung thực dụng: cái cười là cao hơn sự suy nghĩ, mọi sự lao tâm khổ tứ đều vô bổ chẳng hề mang lại một lợi ích cụ thể, vậy tốt hơn hết là cười cho xong, cười thoát thân, cười để khỏi bận tâm trước chuyện đời rắc rối. Nhưng liệu có nên dừng lại ở một cách hiểu theo nghĩa đen như vậy? Theo tôi hiểu, suy nghĩ là cả một đặc ân mà Thượng đế dành riêng cho con người, trong khoa học nhân văn có một từ riêng mang tên homo sapiens để chỉ một giai đoạn phát triển quan trọng mà loài người đạt tới, kể từ đó nhân loại mới thực sự trưởng thành. Mặc dù không bao giờ đạt tới chân lý tuyệt đối, song nhờ liên tục suy nghĩ, con người vẫn ngày càng tiến tới trong sự nhận thức đời sống. Có điều trong khi sống với niềm tin "Tôi tư duy vậy tôi tồn tại", thỉnh thoảng họ cần một chút nghỉ ngơi vui vẻ trước khi đi tiếp và tiếng cười được đề cao là với nghĩa ấy, bản thân tiếng cười của Thượng đế nói ở đây cũng đầy chất trí tuệ. Nên chú ý thêm là trong kho từ vựng của Kundera có một từ mà thường người ta để nguyên không dịch, đó là kitsch. Theo ông, kitsch là cái nhu cầu tự nhìn mình trong tấm gương dối trá, nó cũng là thái độ của kẻ muốn tự làm vui bằng bất cứ giá nào mà Kundera không bao giờ chịu nổi. Thành thử nếu cho rằng câu tục ngữ trên được đưa ra như lời kêu gọi vứt bỏ tư tưởng và thay bằng tiếng cười dễ dãi rồi tự cho rằng như thế là mình đã đạt tới sự hiền minh của Thượng đế, thì đó không chỉ là đi ngược với trí tuệ dân gian mà còn đi ngược với chính Kundera nữa.
Nguồn: Vương Trí Nhàn. Nhân nào quả nấy, NXB Phụ Nữ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét