cùng chia sẻ niềm đam mê

Twitter Button from twitbuttons.com

22.12.10

Phạm Duy

Nhạc sĩ, tên thật là Phạm Duy Cẩn, xuất thân từ một gia đình văn nghiệp. Cha là Phạm Duy Tốn thường được xem như nhà văn xã hội đầu tiên của nền Văn học Mới hồi đầu thế kỷ 20. Anh là Phạm Duy Khiêm, giáo sư thạc sĩ, cựu Đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Pháp, văn sĩ Pháp văn, tác giả những cuốn Légendes des terres sereines, Nam et Sylvie, De Hanoi à Lacourtine...
 Sinh ngày 5 tháng 10 năm 1921 (5 tháng 9 năm Tân Dậu) tại phố Hàng Cót, Hà Nội. Phạm Duy học vỡ lòng tại trường Hàng Thùng, học tiểu học tại trường Hàng Vôi, học không được giỏi và thường bị phạt. Đến khi 13 tuổi (1934) vào được lớp nhất, ông học giỏi lên dần, thành một trong những học sinh ưu tú của lớp, nhất là môn đọc thơ tiếng Pháp.

Năm 1936, vào học ở trường Thăng Long, một trọng điểm trong thời kỳ kháng chiến. Thầy dạy ông có Võ Nguyên Giáp, còn trong đám bạn cùng lớp có nhà thơ Quang Dũng.
Tập tin:Pham Duy tre.jpg
Nhạc sĩ Phạm Duy thời còn theo gánh hát Đức Huy

Năm 1940, nghe lời bè bạn, ông thi vào trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông dương, học thầy Tô Ngọc Vân, chung lớp với Bùi Xuân Phái, Võ Lăng... nhưng ông không có năng khiếu nhiều và không ham vẽ cho lắm. Thời kỳ này ông ca hát nhiều hơn là vẽ tranh.

Năm 1942 ông có sáng tác đầu tay "Cô hái mơ".

Năm 1944, ông thành ca sĩ hát tân nhạc trong gánh hát cải lương Đức Huy – Charlot Miều. Gánh hát này đưa ông đi rất nhiều miền trên đất nước, từ Bắc chí Nam, khiến ông mở mang tầm mắt, ngoài ra tự nhiên cũng trở thành một trong những nhân tố quan trọng trong việc phổ biến tân nhạc đến các vùng. Thời kỳ hát rong, Phạm Duy được gặp gỡ nhiều tên tuổi lớn như thi sĩ Lưu Trọng Lư, nhạc sĩ Lê Thương, Lê Xuân Ái, Văn Đông... và nhất là nhạc sĩ Văn Cao, người sau này trở thành bạn thân thiết.

Sau đó ông khởi sự con đường âm nhạc của mình với việc trở thành ca sĩ trong gánh hát Đức Huy, đi diễn lưu động từ Bắc qua Trung vào Nam trong những năm 1943-1945. Ông là người đầu tiên hát nhạc cải cách trên đài Radio Indochine ở Sài Gòn vào năm 1944, mỗi tuần trình bày 2 lần.

 Năm 1945, xảy ra nạn đói, Phạm Duy rời nhà cũ đi lang thang nhiều nơi, sau đó ông theo kháng chiến. Trong thời Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất, Phạm Duy trở thành cán bộ văn nghệ của Việt Minh và là một trong những nhạc sĩ thành công nhất lúc đó. Thời kỳ này, bên cạnh tài năng được khen ngợi, thì xu hướng lãng mạn của Phạm Duy bị cho là tiêu cực, nhiều bài hát của ông bắt đầu bị xét duyệt, cấm đoán. Sau do không chịu sự quản thúc ngặt nghèo, ông đã rời bỏ Việt Minh về thành. Từ đó tác phẩm của ông bị cấm phổ biến trong vùng kiểm soát của Việt Minh, cũng như ở miền Bắc sau 1954 và trên cả nước sau ngày 30 tháng 4 năm 1975.

Năm 1949 ông lập gia đình với ca sĩ Thái Hằng.

Năm 1951, ông đem gia đình về Sài Gòn.

Năm 1953, ông qua Pháp học về âm nhạc, tại đây quen với giáo sư Trần Văn Khê. Về lại miền Nam, ông tiếp tục sáng tác và biểu diễn trong ban hợp ca Thăng Long. Nhạc Phạm Duy phổ biến rất rộng rãi ở miền Nam (mà nhạc sĩ Trịnh Công Sơn từng gọi là "bàng bạc khắp mọi nơi"[1] thời bấy giờ). Thời gian này ông có những hoạt động trong ngành điện ảnh, và đã gây nên một vụ tai tiếng lớn khắp từ Nam chí Bắc khi ngoại tình với ca sĩ Khánh Ngọc, là vợ của nhạc sĩ Phạm Đình Chương - người gọi ông bằng anh rể.[2].

Sau sự kiện này, ông lại dính vào một vụ tình cảm nữa với Alice, con gái của một người tình cũ hồi năm 1944 tên Hélène. Tuy nhiên, ông khẳng định cả hai chuyện này đều là những tình cảm trong sáng: "Vì vấn đề chênh lệch tuổi tác cũng như vì tôi không muốn làm phiền những người chung quanh một lần nữa, tôi quyết định ngay từ lúc đầu rằng đây chỉ là một mối tình giữa hai tâm hồn mà thôi. Tôi cố gắng tránh mọi đụng chạm về xác thịt và tôi hãnh diện để nói rằng nàng vẫn là một trinh nữ khi rời xa tôi để bước chân lên xe hoa về nhà chồng. Là một nghệ sĩ, tôi cần tình yêu để sáng tác, giống như con người cần khí trời để thở. Tôi không cần phải chiếm đoạt ai cả, nhất là chiếm đoạt một người con gái còn ít tuổi. Giữa chúng tôi, không có ràng buộc, trói chặt nhau"[cần dẫn nguồn]. Ông đã viết nhạc và lời cho khá nhiều bài nhân chuyện này: "Nụ Tầm Xuân", "Thương Tình Ca", "Chỉ Chừng Đó Thôi", "Tìm Nhau", "Cho Nhau".




Từ sau 30 tháng 4 năm 1975, ông và gia đình cư ngụ tại Thành phố Midway, Quận Cam, California.

Năm 1990, ông bắt đầu viết hồi ký, khi hoàn tất chia làm 4 cuốn.

Năm 1999, vợ ông là bà Thái Hằng qua đời, sự kiện này khiến ông bị cao huyết áp phải đi nằm bệnh viện một thời gian dài. Sau năm này, lần đầu về thăm quê hương sau 25 năm lưu lạc, ông gặp gỡ nhiều bạn cũ ở Việt Nam.

Tháng 5 năm 2005, ông trở về Việt Nam, mua nhà sống tại Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh cùng các con trai Duy Quang (ca sĩ), Duy Cường. Tháng 7 cùng năm, có 9 nhạc phẩm của ông được phép lưu hành ở Việt Nam; tháng 11, được phép lưu hành thêm 10 tác phẩm nữa. Tính đến nay (tháng 8 năm 2007) đã có hơn 40 tác phẩm của Phạm Duy được phổ biến tại Việt Nam, tính cả các đoản ca trong "Trường ca con đường cái quan".

  • Áo anh sứt chỉ đường tà
  • Bà mẹ Gio Linh
  • Bà mẹ phù sa
  • Bên cầu biên giới
  • Bên ni bên nớ
  • Bao giờ biết tương tư
  • Cây đàn bỏ quên
  • Chiều về trên sông
  • Con đường cái quan
  • Dạ lai hương
  • Đạo ca
  • Đường chiều lá rụng
  • Đưa em tìm động hoa vàng
  • Giọt mưa trên lá
  • Giải thoát cho em
  • Giết người trong mộng
  • Giờ thì em yêu
  • Giọt chuông cam lộ
  • Gọi em là đóa hoa sầu
  • Hạ hồng
  • Hẹn hò
  • Kỷ vật cho em
  • Kỷ niệm
  • Minh Họa Kiều
  • Mộ khúc
  • Mẹ Việt Nam
  • Ngày trở về
  • Nha Trang ngày về
  • Ngày xưa Hoàng Thị
  • Ngày đó chúng mình
  • Ngày em hai mươi tuổi
  • Ngày sẽ tới
  • Ngày tháng hạ
  • Ngày trở về
  • Ngày xưa
  • Nghìn năm vẫn chưa quên
  • Nghìn thu
  • Ngồi gần nhau
  • Ngọn trào quay súng
  • Ngụ ngôn mùa đông
  • Ngựa hồng
  • Người lính bên tê
  • Người lính trẻ
  • Người tình
  • Người tình già trên đầu non
  • Người về
  • Người việt cao quý
  • Ngậm ngùi
  • Nha Trang ngày về
  • Phố buồn
  • Quê nghèo
  • Rong ca
  • Tâm ca
  • Thiền ca
  • Thông điệp mùa xuân
  • Thương ca chiến trường
  • Tình ca
  • Tình hoài hương
  • Tiếng thu
  • Tổ khúc Bầy chim bỏ xứ
  • Trường ca Con đường cái quan
  • Trường ca Hàn Mặc Tử
  • Trường ca Mẹ Việt Nam
  • Tục ca
  • Về miền Trung
  • Vần thơ sầu rụng
  • Quán bên đường
  • Quán Thế Âm
  • Răn
  • Rồi đây anh sẽ đưa em về nhà
  • Rong khúc
  • Ru con
  • Thu ca điệu ru đơn
  • Thu chiến trường
  • Thương ai nhớ ai
  • Thương tình ca
  • Thuyền viễn xứ
  • Tiễn em
  • Tiếng bước trên đường khuya
  • Tiếng hát to
  • Tiếng hát trên sông
  • Tiếng hát trên sông Lô
  • Tiếng hò miền Nam
  • Tiếng sáo Thiên Thai
  • Tiếng thời xưa
  • Viễn du
  • Xin em giữ dùm anh
  • Xin tình yêu Giáng sinh
  • Xuân
  • Xuân ca
  • Xuân hành
  • Xuân hiền
  • Xuân thì
  • Xuất quân
  • Yêu em vào cõi chết
  • Yêu là chết trong lòng

Không có nhận xét nào:

Tìm kiếm Blog này