Ngô Đình Diệm (1901–1963) là một chính trị gia Việt Nam. Ông là Thủ tướng cuối cùng của Quốc gia Việt Nam và là Tổng thống đầu tiên của Việt Nam Cộng hòa.
Tiểu sử
Ngô Đình Diệm sinh ngày 3 tháng 1 năm 1901 tại Huế trong một gia đình quan lại theo đạo Công giáo ở Việt Nam, tên thánh của ông là Jean Baptiste (Gioan Baotixita).
Gia đình
Mẹ của ông là Phạm Thị Thân còn cha ông là Ngô Đình Khả, quê quán ở làng Đại Phong xã Phong Thủy huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình từng làm Thượng thư triều đình Huế kiêm Phụ đạo Đại thần và cũng là cố vấn của vua Thành Thái. Ngô Đình Diệm là người con thứ ba trong gia đình với hai người anh đầu là Ngô Đình Khôi và Ngô Đình Thục. Ngô Đình Khôi là cựu Tổng đốc Quảng Nam. Trong Cách mạng tháng Tám, Ngô Đình Khôi bị Việt Minh bắt giữ và xử tử. Cùng bị bắt giữ đợt này là Phạm Quỳnh và Ngô Đình Huân, con trai Ngô Đình Khôi và là cựu Thanh tra Lao động trong chính phủ bảo hộ của Pháp. Sau khi bị xử tử, xác của Ngô Đình Khôi và Phạm Quỳnh được chôn chung trong một hố.[1] Ông còn năm người em là Ngô Đình Nhu, Ngô Đình Cẩn, Ngô Đình Luyện, Ngô Thị Hiệp và Ngô Thị Giáo - mẹ của Hồng y Nguyễn Văn Thuận.
Trong cuộc đời chính khách của mình, ông là người không lập gia đình, không cưới vợ và sinh con
Thời trẻ
* Từ lúc còn nhỏ, ông được Nguyễn Hữu Bài - quan phụ chính trong triều dạy dỗ và coi như con đẻ, từ năm 15 tuổi ông vào học trường dòng với dự định sau này làm tu sĩ, nhưng không chịu nổi kỷ luật khắt khe trong trường dòng, ông đã bỏ trường dòng ra xin học vào trường quốc học Huế (Pellerin Huế).
* Năm 1914 đỗ thành chung, được bổ làm thừa phái [2]
* Từ năm 1919 ông ra Hà Nội học trường Hậu bổ (trường hành chính) và tốt nghiệp 2 năm sau đó năm 1921[3].
Giai đoạn làm quan triều Nguyễn
* Năm 1921, Nhận chức tri huyện Hương Trà và sau đó là Hương Thủy.
* Năm 1923, ông được bổ nhiệm làm Tri huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên, rồi Tri phủ Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị.
* Năm 1926, Nhận chức tri phủ Hải Lăng, thăng dần lên quản đạo Ninh Thuận
* Năm 1929, ông được bổ nhiệm làm Tuần vũ tỉnh Bình Thuận.
* Năm 1933, ông được bổ nhiệm Thượng thư Bộ Lại trong triều đình vua Bảo Đại, là vị thượng thư trẻ tuổi nhất trong triều Nguyễn lúc bấy giờ. Trong thời gian này ông được bầu làm Tổng thư ký uỷ ban cải cách, ông đề xướng hai điều với chính quyền bảo bộ Pháp: một là thống nhất Trung và Bắc Kỳ theo Hòa ước Giáp Thân 1884 và hai là cho Viện Nhân dân Đại biểu Trung Kỳ được quyền tự do thảo luận các vấn đề. Việc thống nhất cốt sẽ buộc chính quyền Bảo hộ Pháp bãi bỏ khâm sứ Trung Kỳ và thống sứ Bắc Kỳ và thu về thành một viên tổng trú sứ (résident général) ở Huế mà thôi. Việc thứ hai là để canh tân lối cai trị cũ. Vì không thấy được chấp nhận, ông từ chức ngày 12.07.1933[4].
Hoạt động chính trị chống Pháp
* Năm 1933, ông vào Sài Gòn cùng với Nguyễn Phan Long, Lê Văn Kim,...tổ chức phong trào của trí thức Nam và Trung Kỳ vận động chính giới Pháp tại Paris để đòi truất phế quan Toàn Quyền Đông Dương Pierre Pasquier. Việc không thành, ông bị Pasquier trục xuất khỏi Huế và chỉ định cư trú tại Quảng Bình. Tuy nhiên, sau cái chết của Pasquier năm 1934, viên toàn quyền mới Eugene René Robin đã phục hồi tước vị hàm cho ông và ông về dạy tại trường Thiên Hựu (Providence) do anh ông là Ngô Đình Thục làm Giám học[5]
* Thời kỳ 1934-1944, Ngô Đình Diệm tham gia thành lập và lãnh đạo đảng Đại Việt Phục Hưng chống Pháp với thành phần đảng viên nòng cốt là quan lại, linh mục, cảnh sát, và lính khố xanh bản xứ tại Trung Kỳ. Tháng 7 năm 1944, mật thám Pháp phá vỡ tổ chức này đã tổ chức vây bắt Ngô Đình Diệm ở tại phủ Cam. Nhờ sự giúp đỡ của hiến binh Nhật, ông thoát nạn về trú tại lãnh sự Nhật ở Huế. Sau vài ngày, người Nhật đưa Ngô Đình Diệm vào Đà Nẵng rồi dùng máy bay quân sự chở thẳng vào Sài Gòn trú tại trụ sở hiến binh của Nhật.[6] Ông cũng được Việt Nam Phục quốc Đồng minh Hội do hoàng thân Cường Để ủy nhiệm công việc vận động nhân sự ở Trung Kỳ để chống Pháp.[7]
* Tại Sài Gòn, ông đã tham gia thành lập Uỷ ban Kiến quốc với mục tiêu phò tá hoàng thân Cường Để, tuy nhiên Nhật không cho Cường Để về nước để lập làm vua mà vẫn tiếp tục sử dụng Bảo Đại để lập nên một chính quyền thân Nhật với quốc hiệu mới là đế quốc Việt Nam. Bảo Đại đã từng mời ông làm thủ tướng trong chính quyền mới nhưng không thành mà thay vào đó là Trần Trọng Kim.[8]
Trong thời kỳ Chiến tranh Đông Dương
Sau khi Bảo Đại thoái vị, Việt Minh giành chính quyền, ông cùng với một số người thân trong gia đình bị Việt Minh bắt ở Tuy Hoà - Phú Yên, chỉ có hai người em Ngô Đình Nhu và Ngô Đình Cẩn chạy thoát. Người anh Ngô Đình Khôi bị chính quyền Việt Minh bắt và xử tử, còn ông bị bắt đem ra Bắc và giam giữ tại tỉnh miền núi Tuyên Quang nhưng được trả tự do vào năm 1946[9].
Năm 1948, khi cựu hoàng Bảo Đại đang sống lưu vong ở Hồng Kông đang điều đình với Pháp để ký hiệp định Pháp-Việt, ông đã sang Hồng Kông thuyết phục Bảo Đại kiên định trong vấn đề độc lập dân tộc nhưng sau đó thấy Bảo Đại ký hiệp định với Pháp ở Hạ Long cho Việt Nam một sự độc lập giả hiệu ông đã thất vọng và quay về Huế sống với người em Ngô Đình Cẩn và có thời gian ông lên sống với vợ chồng Ngô Đình Nhu ở Đà Lạt
Năm 1950, ông theo anh là giám mục Ngô Đình Thục đi Vatican, rồi sau đó sang Nhật gặp hoàng thân Cường Để đang sống ở đây. Thời gian hai năm kế tiếp ông sang Mỹ phần lớn lưu trú tại các trường dòng Lakewood ở New Jersey và trường dòng Ossining ở New York. Đây cũng là thời kỳ ông gặp hồng y Spellman, người đã đóng một vai trò rất quan trọng trong việc tạo nên sự nghiệp chính trị của ông sau này. Nhờ sự giới thiệu của Spellman và một vài nhân vật cấp cao của CIA, Ngô Đình Diệm vào ở ẩn ở các chủng viện lớn như Maryknall, Lakewood rồi vào trường đại học Michigan tham gia một số khóa huấn luyện. [10]
Tháng 5 năm 1953, theo lời mời của một số chính khách lưu vong chống Cộng sản theo đạo Kito giáo, Ngô Đình Diệm bay sang Pháp rồi sau đó qua Bỉ trú ngụ tại một tu viện lớn. Năm 1954, Ngô Đình Diệm từ Bỉ trở lại Paris sống tại nhà ông Tôn Thất Cẩn (con trai của cụ Thân thần phụ chính Tôn Thất Hân). Tại đây, với sự yểm trợ của Ngô Đình Luyện, Diệm bắt đầu vận động trong giới chính khách Việt sống lưu vong.
Thủ tướng dưới quyền Bảo Đại
Sau hiệp định Genève, Việt Nam tạm thời phân chia làm hai vùng tập trung quân sự để chờ ngày tổng tuyển cử toàn quốc và thống nhất Việt Nam, tại miền Nam do lực lượng Quốc gia Việt Nam và Liên hiệp Pháp kiểm soát. Được sự hậu thuẫn của chính phủ Hoa Kỳ, ông chính thức được quốc trưởng Bảo Đại bổ nhiệm làm thủ tướng vào ngày 16 tháng 6 năm 1954 khi hai người gặp nhau ở Pháp.
Trong thời kỳ đầu làm thủ tướng Quốc gia Việt Nam, thực tế ông không có quyền lực đối với các lực lượng quân đội, cảnh sát với những người đứng đầu là Nguyễn Văn Hinh và Lê Văn Viễn. Hai lực lượng này liên minh với nhau nhằm chống lại chính phủ trung ương, trong khi thủ tướng cũng không kiểm soát được bộ máy quan chức dân sự vì các viên chức Pháp đang còn nhiều, nắm giữ các vị trí then chốt. Nền tài chính vẫn do ngân hàng Đông Dương mà phía sau là chính phủ Pháp quản lý. Thực tế trong gia đoạn đầu cầm quyền thủ tướng ông không có quyền hành.
Sự kiện quan trọng trong giai đoạn này là việc tổng thống Hoa Kỳ - Eisenhower gửi công hàm chính thức cho thủ tướng Ngô Đình Diệm cho biết từ đây chính phủ Việt Nam nhận viện trợ trực tiếp của chính phủ Hoa Kỳ chứ không qua nhà đương cục Pháp như trước.
Ngô Đình Diệm cho rằng cơ hội duy nhất cho quốc gia Việt Nam đứng vững được là phải giành được độc lập thực sự, và ông nhất định thực hiện mục tiêu đó một cách dũng cảm và kiên trì hiếm có. Chỉ sau vài tháng nắm quyền thủ tướng, tháng 12 năm 1954 ông bãi bỏ quyền phát hành giấy bạc của ngân hàng Đông Dương, từ nay giấy bạc lưu hành trên lãnh thổ miền Nam sẽ do ngân hàng Việt Nam mới thành lập phát hành và cục hối đoái giao cho chính phủ Việt Nam quản lý, tiếp đó ông yêu cầu chính phủ Pháp giao lại cho Việt Nam trong thời hạn năm tháng việc kiểm soát quân đội quốc gia lâu nay vẫn thuộc bộ chỉ huy Pháp.
Tổng thống Việt Nam Cộng hoà
Bài chi tiết: Đệ nhất Cộng hòa Việt Nam
Tại miền Nam, từ 1954-1955, với cương vị thủ tướng, ông đã dẹp yên và thu phục các lực lượng Bình Xuyên, lực lượng vũ trang của các giáo phái Hoà Hảo, Cao Đài vốn là các tổ chức lúc này do Pháp đứng sau hỗ trợ nhằm chống lại ông, tiếp đó là cuộc trưng cầu dân ý miền Nam Việt Nam, 1955 đã chấm dứt chính thể quốc gia Việt Nam - quốc trưởng Bảo Đại bị phế truất. Chính thể mới Việt Nam Cộng Hoà được thành lập vào ngày 26 tháng 10 năm 1955 và ông được bầu làm Tổng thống nền Đệ nhất Cộng hòa Việt Nam vào ngày 23 tháng 10 năm 1955. Hai năm sau, 1957 ông có chuyến viếng thăm chính thức Hoa Kỳ lần đầu tiên với cương vị tổng thống của Việt Nam Cộng hoà.
Sau khi lên làm tổng thống, ông giữ mọi quyền cai quản đất nước với người em Ngô Đình Nhu làm cố vấn và cả hai người đều phỏng theo các phương pháp cộng sản để chống lại chính quyền cộng sản ở miền Bắc. Trong khi chế độ cộng sản miền Bắc được xây dựng trên học thuyết cộng sản thì hai anh em xây dựng chủ nghĩa nhân vị như là một học thuyết nhà nước ở nam Việt Nam với chính đảng Cần lao Nhân vị, loại trừ triệt để sự đối lập chính trị ở miền Nam bằng những chiến dịch tố cáo cộng sản nằm vùng. Hoa Kỳ không phản đối việc này với lý do trong một xã hội chia rẽ Nam Việt Nam đứng trước nguy cơ lật đổ của cộng sản nên Diệm phải có chính đảng riêng của mình, có chính phủ mạnh để đối phó với tình hình và Hoa Kỳ đã ủng hộ Ngô Đình Diệm thiết lập một chế độ cực quyền.
Chính sách ủng hộ này của Hoa Kỳ tạo mầm mống cho hậu quả nghiêm trọng trong nền chính trị miền Nam. Tướng Edward Lansdale - phụ trách chiến tranh tâm lý ở miền Nam lúc này đã nhìn thấy nguy cơ trong chính sách của Ngô Đình Diệm, ông tìm cách thuyết phục đại sứ Hoa Kỳ Frederick Nolting ngăn cản Diệm - Nhu và không nên xây dựng một nhà nước cực quyền ở Nam Việt Nam vì chính sách của họ Ngô sẽ đưa đến tình trạng chia rẽ những người có tinh thần dân tộc. Với việc loại trừ các đối thủ chính trị đã tạo nên một khoảng trống chính trị ở Nam Việt Nam khiến Hoa Kỳ không có sự lựa chọn nào khác ngoài chính quyền hiện hữu.
Chính sách cai trị đất nước dựa vào thiểu số người công giáo và tập trung quyền lực vào gia đình đã tạo ra những mầm mống xung đột giữa công giáo và Phật giáo cũng như sự bất mãn trong đội ngũ tướng lĩnh quan chức. Từ năm 1960 khi Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam (MTGPMN) với sự hậu thuẫn của chính quyền miền Bắc ra đời tiến hành đấu tranh vũ tranh đã làm cho tình hình an ninh ở miền Nam bị xáo trộn, lực luợng MTGPMN đã kiểm soát được phần lớn vùng nông thôn bất chấp các kế hoạch quốc sách như Ấp Chiến lược và Khu Trù mật của ông.
Cùng với việc chống Cộng sản không đạt được kết quả và không ổn định được sự mâu thuẫn tôn giáo được xem là nguyên nhân dẫn tới sự mất uy tín trầm trọng của ông và chính quyền ông trước Hoa Kỳ. Sự kiện Phật Đản, 1963 xảy ra là giọt nước tràn ly dẫn tới chính phủ Kennedy bỏ rơi Ngô Đình Diệm và khuyến khích đảo chính để lật đổ chế độ độc tài đã đưa miền Nam đến tình trạng hỗn loạn. Cuộc đảo chính diễn ra vào lúc 11h30 ngày 01 tháng 11 năm 1963, lực lượng đảo chính đã chiếm dinh tổng thống, ông và Ngô Đình Nhu trốn ra khỏi dinh và về lánh nạn tại nhà thờ Cha Tam - Chợ Lớn.
Cái chết và mai táng
Sau khi bị lật đổ bởi các tướng lĩnh dưới quyền ngày 1 tháng 11 năm 1963, ông cùng em trai - cố vấn Ngô Đình Nhu lánh nạn tại nhà thờ Cha Tam, sáng ngày hôm sau ông cùng với ông Nhu gọi điện và ra hàng lượng đảo chính. Trên đường bị chở về Bộ Tổng tham mưu, ông và Ngô Đình Nhu bị một sĩ quan trong lực lượng đảo chính (Có nhiều tài liệu cho rằng Đại úy Nguyễn Văn Nhung theo lệnh của Tướng Dương Văn Minh) sát hại và đến nay nguyên nhân vụ ám sát này vẫn chưa rõ là do tư thù hay do lệnh của Hoa Kỳ).
Hai ông được chôn ở nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi (vị trí ở đường Điện Biên Phủ cắt với đường Hai Bà Trưng, ngày nay là Công viên Lê Văn Tám). Áo quan của Ngô Đình Diệm hình hộp, áo quan của Ngô Đình Nhu có nắp tròn. Một nhân chứng thời kỳ này giải thích vì người thân của hai ông đi mua vội quan tài nên chỉ mua được một chiếc hạng tốt dành cho ông Diệm, còn chiếc hạng vừa dành cho ông Nhu. Trong khoảng thập niên 1980, do nhu cầu phát triển đô thị trong nội đô Sài Gòn, nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi được di dời về nghĩa trang Lái Thiêu (nghĩa trang nhân dân số 6B) ngày nay. Mộ hai ông nằm hai bên mộ thân mẫu, bà Phạm Thị Thân, ngoài ra, mộ ông Ngô Đình Cẩn cũng được dời về gần đó. Mộ hai ông ban đầu không có tên mà chỉ ghi tên thánh và "Huynh" (chỉ ông Diệm) hoặc "Đệ" (ông Nhu), sau đó, theo đề nghị của một số người, mộ đã được đề đích danh
Biên giới của thế giới tự do chạy dài từ Alaska đến sông Bến Hải.
”
—Ngô Đình Diệm (Trong bài diễn văn đáp từ Lyndon Johnson)
Tướng Cao Văn Viên, trong một cuộc phỏng vấn lúc cuối đời, đã có một số nhận xét về Nguyễn Văn Thiệu cũng như so sánh giữa Nguyễn Văn Thiệu và Ngô Đình Diệm, sau đây lược trích đoạn nhận xét về Ngô Đình Diệm:"...ông Ngô Đình Diệm chỉ là một symbol, một biểu tượng mà thôi, ông không thể làm gì nếu không có cố vấn Nhu bên cạnh... Ông Nhu chống Mỹ hơn chống Pháp. TT Diệm thì trái lại. Rốt cuộc, ông Diệm trở thành nạn nhân của Mỹ. TT Diệm cai trị nước như một quan lại của thời quân chủ, ông bẩm sinh chống cộng, tự ban cho mình 'thiên mạng' cứu nước. TT Diệm tự hào về dân tộc, tự đại về gia đình, thích độc thoại, không chấp nhận dễ dàng sự chỉ trích. Ông chủ trương 'tiết trực tâm hư' nhưng bị ảnh hưởng nặng của gia đình. TT Diệm dễ tin người xu nịnh nên dễ bị phản trắc,...
Ngô Đình Diệm từng sống ở Hoa Kỳ một thời gian, có quan hệ với một số nhân vật trong chính giới Mỹ, được Hoa Kỳ ủng hộ về Việt Nam làm Thủ tướng trong chính phủ Bảo Đại (sau Hiệp định Genève) rồi Tổng thống Đệ nhất Cộng hòa Việt Nam. Người có ảnh hưởng rất lớn trong việc đưa ông Diệm về chấp chính là Hồng y Spellman. John Cooney (1985) đã viết[12]:
"Tuy rằng không có mấy người biết điều này, Hồng y Spellman đã đóng một vai trò rất quan trọng trong việc tạo nên sự nghiệp chính trị của một người đã ở trong một Trường Dòng ở New York trước đây, vừa trở thành Thủ tướng của miền Nam Việt Nam: Ngô Đình Diệm. Ở Diệm, Spellman nhìn thấy những đặc điểm mà ông ta muốn có trong mọi người lãnh đạo: Công giáo nồng nhiệt và chống Cộng điên cuồng."
Một số người cho rằng Ngô Đình Diệm là người theo chủ nghĩa dân tộc. Song tác giả Dennis Bloodworth (1970) nhận xét rằng[13]:
"Cho tới năm 1963 mật vụ của Diệm đã bắt giữ hoặc đẩy vào tay những kẻ thù hầu như mọi người quốc gia có tên tuổi đã chiến đấu cho tự do của đất nước trong 20 năm trước. Ông ta và gia đình mình đã đàn áp mọi đối lập, chất đầy nhà tù, bịt miệng báo chí, gian lận bầu cử, và bám vào quyền lực."
Có ý kiến cho rằng Ngô Đình Diệm đã bỏ lỡ cơ hội thống nhất đất nước khi từ chối hiệp thương, không tiến hành tổng tuyển cử và giết hại rất nhiều người thân cộng[14]. Tuy nhiên theo Richard J. Barnet nhận xét [15]:
Điều quan tâm chính của chính quyền Diệm là sự an toàn của chính quyền. Chính quyền Diệm sợ rằng cuộc bầu cử dự định tổ chức vào tháng 7, 1956 đưa đến sự thắng lợi của Hồ Chí Minh và chấm dứt quyền lực của những chính trị gia không Cộng sản
Ngô Đình Diệm tuyên bố chống lại sự can thiệp quân sự của Mỹ vào Việt Nam. Ông nói
"Nếu quý vị mang Quân đội Mỹ vào Việt Nam, tôi phải giải thích thế nào đây với dân tộc tôi? Với người dân Việt, hình ảnh hãi hùng của Quân đội Viễn chinh Pháp còn hằn sâu trong tâm trí họ. Sự can thiệp của bất cứ quân đội ngoại quốc nào vào Việt Nam cũng đem lại sự bất lợi cho Việt Nam"
Có những nguồn tin rằng vào nửa cuối năm 1963, Ngô Đình Diệm bắt đầu xem xét khả năng bắt tay với Bắc Việt - Hồ Chí Minh đề xuất khả năng thành lập chính quyền liên bang
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét